đụng vào cơi thơ

Phan Xuân Sinh

Lời Tác Giả: bài “Đây là một bài Phiếm tác giả tưởng tượng ra mọi t́nh huống, mọi dữ kiện để người đọc mua vui trong chốc lát. Không hề có chủ ư châm chích ai. Nếu các hư cấu nầy có trùng hợp với vài trường hợp cá nhân th́ đó là  ngoài ư muốn của tác giả. Kính xin quư vị lượng t́nh tha thứ.”  PXS.

Thơ, một cơi đứng riêng biệt cho những người múa may chữ nghĩa trên văn đàn. Nhà thơ chính hiệu và nhà thơ không chính hiệu đều tiến bước song song không bị một lực cản nào cả. Cái đích mọi người phải đạt tới là sự nổi tiếng. Phương tiện truyền tải là báo chí, mà báo chí hải ngoại  th́ thật dễ dăi với những người làm công tác trí tuệ, nghĩa là báo chí sẵn sàng dành đất cho họ cắm dùi. Không đăng trên những tờ báo nổi tiếng th́ đăng trên báo chợ, báo địa phương nầy không đăng th́ địa phương khác đăng. Miễn sao họ có nặn ra chữ nghĩa thơ phú th́ họ có ngay đất dụng vơ. Có một điều lạ là những nhà thơ nổi tiếng th́ họ rất khiêm cung, nhún nhường. Bước đi của họ thong thả mực thước, không gây ồn ào. Họ thận trọng từng lời từng chữ trong thơ cũng như trong giao tiếp, được văn giới nể nang và kính trọng. C̣n một số ít, cũng may là số nầy không nhiều, họ xô đẩy chen lấn, cố ngoi lên bằng con đường tắt không phải bằng tài năng mà bằng thủ đoạn. Một nhà thơ nào đó thấy được cảnh dầu sôi lửa bỏng nầy, than rằng: “bây giờ người làm thơ nhiều quá, mà t́m đỏ mắt không thấy được một thi sĩ”.

Tôi cũng chập chững làm thơ, nhưng tôi thấy làm thơ quá khó, ngồi cả buổi chẳng rặn ra được chữ nào, có khi làm được năm bảy câu ngày mai xem lại thấy chẳng giống ai, chẳng ra cái ǵ nên đành phải xé bỏ. Có người nói với tôi rằng một ngày họ có thể làm được vài bài thơ như chơi, họ đúng là thiên tài. Có người đến Mỹ mới có 5 năm họ làm được 5 ngàn bài thơ. Họ thuộc vào loại Thánh thơ.

Tôi không đề cập tới vấn đề thơ hay hoặc thơ dở. Thơ th́ không thể  xét đoán một cách hồ đồ được, nhất là cái nh́n của tôi lại thiển cận. Khen người nầy chê người khác là điều cấm kỵ đối với tôi. Ai làm thơ được đều hay cả, chứ không thể nào dở được. Đó là tâm huyết của họ gởi gấm trong đó. Ḿnh không thích cũng không nên nói lên sự thật phũ phàng nầy, phải khen cho được ḷng. Chính v́ điểm đó, các nhà thơ dù hay, dù dở cũng được tâng bốc lên tận mây xanh. Họ cảm thấy rằng trong thiên hạ không có ai qua mặt được ḿnh, thơ của ḿnh đă đạt tới đỉnh cao của nền văn học. Đọc thơ mà không khen sẽ bị tác giả phản ứng ngay lập tức: “Ồ, thằng đó mà biết ǵ thơ phú, chỉ rúc vào xó bếp hầu cơm cho vợ là được việc.” Cho nên, đừng bao giờ dại dột chạm đến điều húy kỵ nầy. Tôi chỉ biết mỗi một điều là đọc thơ ai tôi đều khen tới tấp, khen không ngớt hơi. Tôi không thực ḷng, nhận xét ba phải? Thà chịu tiếng như vậy, chứ láng cháng bày đặt chê bai th́ sẽ lănh đủ mọi búa ŕu.

Có một anh bạn kể cho tôi nghe một chuyện thật thâm thúy. Có một nhà thơ nữ  gửi đến biếu cho nhà phê b́nh nọ một tập thơ c̣n nóng hổi mới ra ḷ. Bà chờ đợi măi tuần nầy qua tuần khác vẫn không thấy ông nói ǵ về tập thơ của ḿnh gởi tặng. Bà nhờ một người nguyên là bạn thân của nhà phê b́nh nọ đến dọ hỏi xem ư kiến của ông ấy nghĩ thế nào về tập thơ của ḿnh. Sau một màn chuyện văng loanh quanh, ông kia hỏi nhà phê b́nh đă xem tập thơ chưa? Nhà phê b́nh vừa vuốt râu hể hả trả lời: “Sau khi xem tập thơ đó, tôi mới khám phá ra được một điều là tôi cũng có khả năng làm thơ được”.  Nhà phê b́nh đ̣i nhảy qua lănh vực thơ? Thật là điều tréo cẳng ngỗng. Ông muốn nói, nếu làm thơ mà dễ như vậy th́ ông đă làm thơ từ khuya rồi. Nhà phê b́nh mà không dám đụng vào cơi nầy, th́ cái thứ tép riu như tụi tôi th́ làm sao sớ rớ tới.

Cơi thơ cũng thật lắm chuyện, nhà thơ lớn, nhà thơ nhỏ, chiếu trên, chiếu dưới, người viết trước, người viết sau, kẻ thành danh, kẻ chập chững v.v… nghĩa là lắm thứ, lắm chuyện, nó giống như mâm cỗ ở đ́nh làng phải ngồi theo tiên chỉ, lăo làng, thứ dân, cùng đinh… Cho đến bây giờ tôi cũng không biết thước nào đo để tiện sắp theo thứ bậc. Thường các thứ bậc nầy đều do chính tác giả vỗ ngực tự nhận, họ tự đánh giá và tự phong cho họ ngang hàng với ai. C̣n người đọc th́ chưa có ai đứng ra làm một thống kê sắp xếp. Tham gia giữa đám văn nghệ ở một vùng nào đó, dù chúng ta giữ thái độ b́nh tĩnh chúng ta vẫn cảm thấy nóng mặt trông thấy những khuôn mặt hiu hiu tự đắc, hợm hĩnh, coi trời bằng vung. Họ cho họ thuộc hàng “minh chủ” của vùng nầy, họ phán thế nầy, đ̣i hỏi thế kia, có ai nổi một chút là họ xâm xỉa, đè bẹp, ganh ghét. Không thấy Thái Sơn ở đây sao mà c̣n láng cháng. Kiểm lại văn nghiệp của họ th́ chẳng có chi gọi là ghê gớm, đọc thơ của họ thấy thấp thoáng kiểu thơ thời xa xưa, từ ư cho đến thể thơ cũ mềm, không mang hơi hám nào mới lạ. Thế mà có khi họ đ̣i phải ngang hàng với các tiền bối thi ca th́ mới xứng danh văn nghiệp của họ.

Đọc một tờ báo nọ, thấy vị nữ giáo sư Việt văn phê b́nh một nhà thơ với lời lẽ quá nặng. Bà bảo rằng Nhà Thơ nọ không biết niêm luật của một bài thơ Đường, v́ ông ta gieo vần lộn xộn, nên bà phán rằng dù dễ tính vẫn không thể bảo ông là một nhà thơ được. Vài ngày sau có một văn nhân khác bênh vực cho nhà thơ kia, với một lư luận hết sức… hàm hồ. Ông cho vị nữ giáo sư Việt văn kia chê v́ tỵ hiềm, v́  ân oán cá nhân chứ rơ ràng vị thi sĩ nhà ta đúng là bậc “Thánh thơ” mà bà ta lại không biết nên quá khắc khe.  Bài thơ Đường kia đúng là thơ Cổ Phong chứ không phải thơ Đường Luật. Nghĩa là theo ư ông ta cứ làm thơ Đường, nếu ta trật luật th́ chẳng sao cả nó sẽ thành thơ Cổ Phong. Lời qua tiếng lại bao nhiêu danh từ nặng kư mang chất thơ đều tuôn ra như nhả ngọc phun châu, mạt sát nhau thậm tệ.  Nói cho cùng người bênh vực cũng chẳng biết loại thơ cổ phong là loại thơ ǵ , cốt ư là choảng lại người kia cho hả tự ái của bạn ḿnh. Đă bảo rồi đọc thơ là phải khen. Vị nữ giáo chức nọ bao năm gơ đầu học tṛ, tưởng rằng đầu của Nhà thơ “bậc thánh” nầy cũng giống như học tṛ của ḿnh nên gơ đại, đâu ngờ bị phản ứng mạnh mẽ. Tôi đưa ra chuyện nầy để quí vị biết là khi đă là một “Nhà Thơ” th́  không thể “sai”, và nếu mà họ lỡ sai th́ mọi người cắn răng chịu đựng, chứ không ai được quyền phê phán chê bai.

Tôi có một người bạn, xin tôi địa chỉ của một nhà thơ đă lừng danh qua nhiều thập niên, tôi nghĩ anh bạn tôi muốn gởi biếu  ông thi sĩ nọ cái ǵ đó. Vài ngày sau anh cho tôi biết anh muốn gởi bản thảo của một tập thơ sắp sửa in, nhờ ông ta viết lời giới thiệu. Tôi hỏi anh bạn chuyện nầy thật cần thiết như vậy sao? Anh trả lời với tôi là được một nhà thơ lớn viết giới thiệu cho tập thơ th́ không có ǵ vinh dự bằng. Nghĩa là theo ư anh, độc giả cần đọc lời giới thiệu hơn là đọc nội dung của tập thơ. Hoặc là được nhà thơ lớn giới thiệu sẽ tăng cái hay của thơ anh lên, nếu không có cái nầy th́ sẽ bị ch́m nghĩm. Hoặc là anh đương nhiên ngang hàng với những người thành danh, v́ thơ anh hay th́ nhà thơ lớn kia mới giới thiệu chứ v.v…nghĩa là thơ hay hoặc thơ dở không cần chính tài năng của ḿnh, mà chỉ dựa vào lời người giới thiệu, nhất là người đó là  một nhân vật nổi tiếng. Quan niệm đơn giản như vậy nên làng thơ bây giờ  tác phẩm nhiều hơn sung rụng. Nhà sách không nhận bán giùm thơ, v́ nếu nhận th́ không đủ kệ để sắp thơ lên bày bán.

Một người bạn khuyên tôi không nên viết lời giới thiệu hay lời bạt cho bất cứ tập thơ nào, dù người đó có thân thiết cách mấy cũng đừng dại dột làm điều nầy. Anh cho tôi biết trường hợp của anh như sau. Một người bạn mang tới một tập bản thảo của tập thơ sắp in, nhờ anh viết lời giới thiệu. Anh sốt sắng nhận lời. Anh đem tất cả tâm huyết ra viết, không ngớt lời khen tặng, thổi phồng con kiến thành con voi. Viết xong anh đọc đi đọc lại rất hả dạ. Qua nhiều đêm suy nghĩ anh lư luận rằng tập thơ nào cũng không tránh khỏi vài khuyết điểm nho nhỏ. Độc giả  tinh ư họ sẽ biết, chê ḿnh ba xạo, viết lếu láo. Khen quá đọc thấy cũng ngượng hay ḿnh lấy rút ra vài điểm lấy lệ để độc giả khỏi phiền ḷng. Thế là giông băo nỗi lên, ông bạn của tôi và nhà thơ đó xem như đoạn tuyệt. Có nhiều trường hợp tác giả tự viết lời giới thiệu, tự khen ḿnh rồi để tên bạn của ḿnh. Đặt cái cày trước con trâu, người bạn không phản ứng được v́ mọi chuyện đă rồi, gạo đă thành cơm. Người bạn ngậm bồ ḥn làm ngọt. Làm ǵ có cái chuyện liêm sĩ khi mà người ta dùng thủ đoạn để được nổi tiếng.

Vài năm gần đây, tại hải ngoại có một phong trào rất “dễ thương”: Thơ phổ nhạc. Nhiều nhà thơ t́m tới những nhạc sĩ danh tiếng lẫy lừng, để nhờ phổ nhạc bài thơ của ḿnh. Thường th́  người nhạc sĩ trước đây đọc được bài thơ mà họ cảm thấy hay, họ có cảm hứng và phổ bài thơ đó. C̣n bây giờ nhà thơ mang thơ của ḿnh tới, nài nĩ, quỳ lụy, trả thù lao cho người nhạc sĩ để họ phổ thơ của ḿnh thành nhạc. Trong tập thơ có nhạc phổ thơ của các nhạc sĩ nổi tiếng th́ danh tiếng của ḿnh càng thêm vang lừng, độc giả lé mắt, các người làm thơ khác phải cúi đầu kính phục. Có người mang mấy bản nhạc phổ thơ của ḿnh về Việt Nam, thuê các ca sĩ chuyên nghiệp đang ăn khách hát để thâu vào CD, qua đây gửi bày bán ở các nhà sách lớn. Có một nữ sĩ phải dùng thẻ tín dụng để trang trải cho các chi phí thâu CD tại Việt Nam. Qua Mỹ nợ đ̣i hàng tháng cấp bách, nên nơi nào có đám đông người Việt, bà xè mấy cuốn CD nài nỉ người mua giống như một người đi xin, bất kể sĩ diện. Bà nghe nơi nào có cuộc họp mặt là bà nhào tới, không cần biết được mời hay không, bà khệ nệ cái khay CD đến từng người mua giùm. Muốn nổi tiếng cũng thật vất vả và cũng lắm công phu.

Có những tập thơ mà khi mở ra ta mới hay đây là một cuốn album của nhà thơ đó, đủ loại h́nh ảnh từ vợ con, người yêu, bạn bè v.v…đều có mặt. Có người muốn giới thiệu sự nghiệp trước đây của ḿnh sau một trang thơ là vài ba trang h́nh ảnh một thời sung túc của ḿnh, quan quyền, vợ đẹp con ngoan. Thật vui mắt. Không cần thơ, chỉ cần h́nh ảnh vàng son cho mọi người thấy cả cuộc đời “lên voi” của ḿnh. Ai dám chê thơ của ḿnh là ngô nghê, nh́n h́nh ảnh oai hùng như thế mà thơ ngô nghê sao được. Có một nhà thơ viết tiểu sử vài ba chục trang giấy, những bằng cấp học vị của ông trải qua các trường học từ Việt Nam tới Mỹ, chiếm hầu hết các trang giấy. Độc giả không cần phải đọc thơ chỉ thấy bằng cấp là đủ choáng ngợp. Người bạn của tôi cầm tập thơ của ông lên, thử làm một con tính số năm của ông ngồi mài kinh sử ở các trường Đại Học mất chừng 100 năm, mới lănh đủ các bằng cấp như vậy. Người thông thái như ông th́ khỏi phải đọc thơ cũng đủ biết thơ ông ở vào cơi vô minh, chứ người trần tục không thể hiểu những ḍng thơ bác học như vậy.

Thường th́ những nhà thơ nữ thuận lợi hơn những nhà thơ thuộc đấng mày râu. Ở đây chúng ta không nói đến tài năng, có lẽ thơ bây giờ không cần ở tài năng mà chỉ cần ở ngoại h́nh chăng? Hèn ǵ mà ta thấy các nhà thơ nữ chiếm ưu thế quá chừng, họ hùng hổ nhập cuộc một cách hăng hái và số lượng nữ giới tham gia vào làng văn nghệ đông đảo chưa từng thấy. Nơi nào mà có bóng dáng đàn bà là tự nhiên vui nhộn hẳn lên, tự nhiên tươi mát  và cũng lắm điều phiền toái. Nói thế chắc quư bà không bằng ḷng, nhưng thực tế là vậy. Có quư bà là anh em chúng tôi hay sinh sự với nhau nhiều hơn và mức độ gây sự cũng trầm trọng hơn. C̣n quư bà gặp quư bà  th́ cũng ngọt ngào như đường và đôi lúc cũng chanh chua như dấm. Nhưng thôi chuyện nầy không nên đào sâu, tôi đang nói về các nhà thơ nữ mà bỗng dưng nhảy qua lănh vực khác ngon ơ như vậy, thôi cho tôi xin trở về lại với đề tài . Các bà cứ làm thơ, cứ in thơ bảo đảm không thể nào lỗ lă được. Các bà đi đâu cũng được đón tiếp một cách nồng hậu. Bằng chứng là có một nhà thơ nữ nổi tiếng trước hết không phải là thơ mà là sắc đẹp, người ta biết sắc đẹp của bà trước khi người ta biết đến cơi thơ của bà.  Có lẽ thơ của bà không bắt kịp được sắc diện của bà nên cho đến bây giờ thơ của bà ít ai nhắc đến. Bà từ một lục địa xa xôi, thế nhưng lại bay đến Mỹ và Canada ra mắt thi phẩm của ḿnh. Những nhà thơ có máu mặt dành nhau đứng ra tổ chức cho bà, bà đến tiểu bang nào cũng được đón tiếp  một cách chu đáo, và thơ của bà bán ra như tôm tươi. Cỡ như Tô Thùy Yên , Du Tử Lê, vẫn c̣n vất vả trong vấn đề ra mắt thơ và bán thi phẩm không phải là chuyện dễ. Thế nhưng bà tái bản thơ bao nhiêu lần vẫn không kịp bán, nhiều nơi đặt cọc mời bà đến viếng, trước là diện kiến dung nhan, sau là diện kiến cơi thơ của bà. Chưa có môt nhà thơ lớn nào dám xuyên lục địa chỉ ra mắt mỗi một tập thơ mà thành công như bà. Đây cũng là một hiện tượng nổi bật nhất trong làng thơ Việt Nam hải ngoại. Như vậy ta nên đặt lại vấn đề, giới thưởng ngoạn thơ bây giờ  tại hải ngoại có cách nhận xét khác lạ hơn trước đây vài thập niên. Các nhà thơ phải có vóc dáng ăn khách trước khi làm thơ. Nghĩa là diện mạo sẽ định đoạt sự nghiệp thi ca của họ. Thơ không được hay lắm nhưng  thuộc phái nữ mà lại đẹp th́ chắc chắn phải hốt bạc.

Một anh bạn nhà văn kể cho tôi nghe một trường hợp thật tức cười về người bạn của anh. Hồi trước năm 75 anh gởi thơ đến Nguyệt san Văn ( không biết lúc ấy ai điều khiển tờ báo), anh gởi măi mà Văn chẳng chịu đăng. Bực ḿnh anh lấy một trong các bài mà báo Văn loại ra ngoài, anh kư lại tên khác thuộc phái nữ và lại gởi đến Văn.  Vài tháng sau anh thấy bài đó đăng rất nghiêm chỉnh trên Văn. Từ đó về sau anh buộc ḷng phải lấy tên ấư dù anh không bao giờ muốn vậy. Trong mọi sinh hoạt đường đường là một đấng nam nhi, nhưng đến khi làm thơ th́ phải đội lốt nữ giới kể ra cũng thiệt thân, nhưng biết làm sao? Như thế mới hay người nữ ở đâu cũng được trọng dụng, ưu đăi. Cho nên trước đây ta không lạ ǵ với những cái tên như Trần Như Liên Phượng và một vài tên nữ khác mà quả thật họ là đàn ông chính hiệu, chứ không ái nam ái nữ  ǵ ráo.

Ở hải ngoại báo chí nhiều quá, tiểu bang nào có người Việt sinh sống là nơi đó báo chí tràn lan, giành giựt quảng cáo, sẵn tờ báo trong tay, ghét ai là chửi xiên chửi xỏ,  nên sinh ra cảnh đánh đấm túi bụi. Quả thật đây cũng là hiện tượng xô bồ và loạn xạ, gây cho ngành báo chí truyền thông một sự tổn thương không ít. Chính v́ báo nhiều mà người viết lại ít, nên bài vở gởi tới là đăng ngay không cần kiểm soát, mà đôi lúc người chủ trương tờ báo lại không có khả năng nhận định, họ chỉ biết có bài trám vô chỗ trống là may lắm rồi.  Đọc những tờ báo tại địa phương họa hoằn lắm chúng ta mới bắt gặp được một bài thơ tàm tạm. Hiện tượng nầy tạo nên những nhà thơ không cần qua sự gạn lọc nào cả, không cần độc giả chấp nhận hay không, ông chủ báo nhiều lúc thấy thơ chẳng ra ǵ nhưng v́ ơn nghĩa nên cho đăng kẻo sợ mích ḷng.  Miễn có thơ đăng báo là họ hiển nhiên trở thành một nhà thơ, chuyện như vậy cũng chẳng có chi đáng nói, nhưng đằng nầy lại xẩy ra lắm chuyện lắm lời. Có một số ít họ tự thấy như vậy tức là ḿnh đă thành công, tất cả người lớn kẻ nhỏ khi đă là nhà thơ th́  đều la øcá mè một lứa với ḿnh, chẳng coi ai ra ǵ và có đôi lúc khiếm nhă với các bậc trưởng thượng. Họ không chịu đọc thơ của ai khác, không thấy cái hay của người khác, không biết cái mới lạ của thi ca. Thơ của họ là vô địch thiên hạ, họ chỉ thấy lời khen tặng xă giao tưởng là chân thật. Họ là người làm thơ mà họ lại quên một điều thật hệ trọng. Không ai dám mở miệng chê bai thơ của người khác, nếu có t́nh trạng nầy tức là người phê b́nh và tác giả bài thơ sẽ là hai kẻ tử thù.  Ở đời ai dại ǵ gây thù gây oán với nhau và các nhà thơ của ta chỉ nghe toàn là lời khen. Lời khen đó làm họ tự đắc,  họ tự sánh ḿnh ngang hàng với những nhà thơ lớn. Tập thơ của ḿnh cũng được xếp trang trọng trong các kệ sách ngoài tiệm  giống như những tác phẩm lớn. T́nh trạng lạm phát thơ kiểu nầy ở hải ngoại thật vô số, không sao liệt kê hết. Mỗi lần địa phương có tổ chức sinh hoạt ǵ,  người xướng ngôn giới thiệu về sự có mặt tham dự của các nhà thơ, nhà văn thôi cũng đủ thấy mất th́ giờ. Như vậy chúng ta đủ biết  nhà văn, nhà thơ “local” nhiều quá chừng. Nhà thơ trung ương với nhà thơ địa phương có cái ǵ để phân biệt? Điều nầy thật khó khăn, và cũng chẳng có ai dám làm một cuộc thống kê. Chỉ c̣n biết nhờ vào sự thẩm định của người đọc.

Một anh bạn làm thơ nói với tôi tại sao anh trở thành nhà thơ vĩ đại (cũng là chuyện tự phong). Mỗi tuần anh gom lại một số báo địa phương, lật trang thơ ra đọc tên tác giả. Nếu tác giả là một nữ thi sĩ, th́ lập tức anh họa ngay lại bài thơ của người đẹp, lời lẽ trong thơ của anh tâng bốc người đẹp lên tận mây xanh, thế nào người đẹp cũng rủ ḷng. Tiếng thơ của anh réo rắc thật ảo nảo đọc lên trong đêm khuya nghe lạnh người. Từ đó anh thành một nhà thơ mà theo lời anh là có tầm cỡ ở  đây. Một nhà thơ khác lại có cách nổi tiếng mà theo lời lẽ anh lư luận với tôi là làm thơ lục bát không cần phải gieo vận, miễn sao chữ cuối câu sáu vần bằng, th́ chữ thứ sáu của câu tám cũng vần bằng là chỉnh rồi. Thời buổi tân tiến thơ phải thoải mái cần chi phải đúng vần đúng vận cho mệt. Anh cũng là một nhà thơ thuộc loại nổi tiếng ở đây. Người thứ ba mà tôi gặp, anh nầy th́ cung cách làm thơ nặng phần thi sĩ hơn. Khi làm thơ anh phải pha một b́nh trà nóng, hút thuốc mơ màng, vặn nhạc nho nhỏ. Có các thứ đó th́ anh làm thơ mới được, vần điệu và suối thơ mới chảy ra ào ào. Lúc nào bí anh bợ nguyên một câu nhạc để vào trong thơ ḿnh, chẳng hạn như ” mai ta chết dưới cội đào” th́ cũng chẳng sao. Trong thơ anh thỉnh thoảng bắt gặp một số câu nhạc th́ cũng đừng lấy làm lạ. Ai mà không chấp nhận, phát hiện điều nầy mà nói ra th́ thế nào cũng bị chửi mắng  thậm tệ.

Một lần ngồi nhậu với vài anh em, th́ có một nhà thơ bước vào. Ông cũng lớn tuổi thuộc hàng trưởng thượng. Tất cả anh em trong tiệc rượu rất nể nang ông v́ tuổi tác,  qua vài tuần rượu ông mới bắt đầu khai mùi thơ của ông. Ông rút trong túi áo ra một xấp thơ và chia cho mỗi người một bài, rồi từng người một lên đọc thơ của ông. Thơ của ông giống như những câu khẩu hiệu, thế nhưng không ai được cười nhé, phải gật gù khen hay. Ai gật gù nhiều th́ ông cho người đó đúng là bậc thức giả, hiểu tường tận từng chữ trong thơ ông, hiểu được ư ông. C̣n ai yên lặng không nói ǵ th́ ông chê là thứ dân kém hiểu biết. Ông thuộc loại ăn nói hàm hồ và lỗ măng nên mọi người không muốn dây dưa đến sự rắc rối vào thân, người nọ truyền người kia nên khi ngồi nhậu, đến cái mục đọc thơ là tất cả đều gật gù như gà mắc đẻ. Ông hiu hiu tự đắc, ngồi rung đùi măn nguyện. Ông chắc ăn thơ của ḿnh đă đi vào ḷng dân chúng, cần thiết cho mọi người, nên ông cho in ngay tập thơ. Ở hải ngoại nầy có một tập tục rất dễ thương, là khi in thơ phải tổ chức ra mắt cho bàng quan thiên hạ biết sự xuất hiện tác phẩm của ḿnh. Ông cũng không thể tránh khỏi tập tục nầy, và có lẽ ông mong muốn có ngày ra mắt để ông được chễm chệ lên diễn đàn, nói về con người ngoài vơ biền c̣n là con người văn nghệ của ông. Thơ của ông bán chẳng được bao nhiêu, và mọi người không chú ư tới thơ nhưng lại chú ư tới ngày  giờ của ông làm bài thơ đó ghi cuối bài thơ. Sỡ dĩ có chuyện nầy bởi v́ tất cả những bài thơ ông làm đều ở trong các trại cải tạo, ra ngoài nhớ  để viết lại đă là điều khó khăn, đằng nầy ông ghi cả ngày tháng làm bài thơ đó ở trại cải tạo nào th́ thật trí óc vô cùng vĩ  đại,(mà quả thật chẳng cần thiết như vậy). Ông nhờ  nhiều người diễn ngâm những bài thơ của ông trong dịp ra mắt, thế nhưng chẳng có ai chịu ngâm giùm cho ông. Có lẽ thơ của ông chỉ đứng ra hét chứ không cách nào ngâm được.

Khi c̣n phụ trách một tờ báo, một người quen biết của tôi mang đến cho tôi một bài thơ và bảo tôi đăng giùm. Sau khi đọc bài thơ tôi thấy có một vài lầm lỗi quan trọng, nếu đăng th́ thật tội nghiệp, người ta sẽ đánh giá tŕnh độ không tốt về cách làm thơ của anh. V́ vậy tôi cân nhắc giữa cái lợi và cái hại, giữa sự mích ḷng và sự chê bai. Tôi chọn cái lợi và sự mích ḷng, tránh đi cái hại và sự chê bai. Tôi không đăng mặc dù tôi đă layout xong. Sau khi tôi không c̣n cộng tác với tờ báo đó, th́ người phụ trách sau nầy lấy bài thơ đó đăng lên. Bây giờ người đó xem tôi như một thứ  thiếu văn hóa, không biết đánh giá tài năng. Trước đây chúng tôi rất thân thiện nhưng v́ chuyện thơ phú mà chúng tôi có vẻ lạnh nhạt với nhau. Mới hay tôi đă thiếu tế nhị, thiếu suy xét nên gây ra cảnh bất đồng, đụng vào tự ái của người khác. Đây là một bài học mà tôi cần phải sửa đổi nếu sau nầy gặp trường hợp tương tự.

Một lần khác tôi được may mắn dự một bữa tiệc rượu gồm chừng năm bảy nhà thơ. Tôi không biết ai đưa ra sáng kiến là mỗi người đọc một bài thơ đắc ư nhất của ḿnh. Thế là tôi có dịp nghe các ông đọc thơ của ḿnh và nói về thơ ḿnh. Có ông th́ sợ người khác không hiểu thơ của ḿnh nên đọc câu nào là giải nghĩa từng chữ, như ngày xưa học Hán Tự vậy. Có ông th́ tŕnh bày trường hợp nào mà ông đă xuất thần làm nên bài thơ vô-tiền-khoáng-hậu nầy. Có ông th́ nhắm mắt lim rim đọc một bài thơ thiền, thơ thiền th́ phải đọc một cách thanh thoát, êm ái, nhẹ nhàng th́ mới đúng là thiền chứ  không th́ hỏng mất đi khí tiết của một bài thơ. Sau khi tham dự đêm thơ nầy, tôi mới nh́n lại cái cao ngạo của Cao Bá Quát c̣n thua xa các bậc hậu sinh thời nay. Cao bá Quát chỉ nhận có hai bồ, chia cho bạn ḿnh một bồ, c̣n một bồ cho thiên hạ. C̣n các nhà thơ bây giờ th́ ôm trọn hết không chia cho ai cả, mỗi người là một ông trời.

Một hôm tới Santa Ana, ngồi nói chuyện với một anh bạn trong quán cà phê th́ gặp một nhà thơ trẻ. Anh bạn tôi hỏi cho qua chuyện: “Thế nào, lúc nầy thơ phú ra sao rồi?”. Thế là trúng được mạch chảy mà lâu ngay đă ứ đọng. Người bạn trẻ kéo ghế ngồi với chúng tôi, nói thao thao bất tuyệt về thơ, giảng cho chúng tôi nghe về thơ hiện đại, chê bai tất cả nhà thơ nổi tiếng trước đây. Tôi sững sốt không ngờ người bạn trẻ  hùng hổ một cách thái quá như vậy. Thơ cũ, thơ mới, thơ tự do, thơ tân h́nh thức v.v…mỗi thời có một chỗ đứng của nó, tất cả trước sau đều góp công làm giàu nền thi ca của dân tộc. Làm thế nào cho thơ hay mới khó, C̣n chuyện thơ mới, thơ cũ chúng ta không nên đố kỵ quá như vậy. Đừng sợ người đọc không hiểu thơ của ḿnh mà hăy thả ra, nếu thiên hạ chấp nhận th́ c̣n tồn đọng, c̣n thiên hạ quên đi th́ xem như chúng bị chết non.

Có một nhà thơ kể cho tôi nghe về việc gây chú ư một cách ngoạn mục. Lấy một bài thơ của ai đó ra b́nh phẩm, diễu cợt. Phải lấy những lỗi lầm mắc phải của bài thơ mà người khác khó thấy được rồi chê, sài xể với một giọng văn đểu cáng, trịch thượng, kẻ cả. Tác giả của bài thơ là người đă nổi tiếng càng tốt, v́ như vậy độc giả mới thấy kẻ phê b́nh trên cơ tác giả bài thơ đó nhiều. Rồi kề trang báo đó đăng bài thơ của nhà phê b́nh. Như vậy trong ấn tượng của người đọc bao giờ cũng nể nang kiến thức sâu rộng của người phê b́nh, nên khi đọc bài thơ của người đó lập tức thấy hay ngay (?). Không biết điều nầy có đúng không, nhưng tôi thấy thỉnh thoảng ông ta chạm đến những nhà thơ thật nổi tiếng. Họ càng nổi tiếng th́ ông càng mạt sát, sài xể thậm tệ.  Chủ ư của ông cho người đọc biết  nổi tiếng cỡ thi sĩ kia mà ông coi chẳng ra chi, th́ các cây viết khác phải coi chừng, đừng có léng phéng. Đây cũng là một h́nh thức nổi tiếng đốt giai đoạn, không cần qua sự thẩm định của độc giả, và cũng không cần sự gạn lọc của thời gian. Một quan niệm thật mới mẽ và cũng thật liều lĩnh. Thế nhưng hỏi ra th́ mới hay tiếng tăm của ông chẳng bay xa, chẳng có ai biết tới. Họa hoằn lắm mới có người biết ông, nhưng không phải nức tiếng về văn chương, mà nức tiếng về chửi bới thô tục.

Ngày xưa, các văn nhân thi sĩ họ tương kính nhau, thuần phục nhau. Cung cách xử thế của họ thật mă thượng. Bây giờ  thật hiếm thấy. Chơi với nhau theo phe nhóm, hắc bạch rơ ràng. Kèn cựa nhau từng li từng tí, chờ kẻ khác sơ hở là phang ngay, không kể chi đến t́nh thâm nghĩa nặng. Cơi thơ bây giờ không c̣n là hoa bướm mộng mị, không c̣n thanh thoát lăng mạn. Cơi thơ bây giờ chúng ta thấy thấp thoáng gươm đao, đè nhau cứa cổ. Hạ nhục nhau, mạ lỵ nhau. Các nhà thơ phải mặc áo giáp, sẵn sàng trong vị trí chiến đấu, gươm luôn luôn rút ra khỏi vỏ thọc ngay vào tử huyệt của đối phương nếu cần.  Người làm thơ không cần phải đọc thơ của ai cả, chỉ biết đọc thơ của ḿnh. Không có thơ của ai hay bằng thơ của ḿnh. Quan niệm về thi ca mỗi thế hệ mỗi khác, mỗi thời mỗi thay đổi. Trong thời buổi tân tiến như hiện nay làm thơ cũng nhanh như chớp, người đọc chấp nhận hay không cũng chẳng cần, miễn sao có tác phẩm tŕnh làng. Người thưởng ngoạn thơ bây giờ cũng dễ dăi, thơ nào hay th́ đọc chơi, thơ nào tệ quá th́ coi như mất năm bảy phút phù du. Chứ không bực bội, phẩn nộ như ngày trước.

Làm sao chúng ta t́m được một không khí thơ mộng của ngày xưa. Làm sao chúng ta đến với thơ bằng sự trung thực, không gian dối. Bây giờ mỗi lần đến cơi thơ, chúng ta mang một cái mặt nạ thật lố lăng như đi dự một cuộc hóa trang. Giả dối c̣n hơn một kép hát. Ai cũng biết vậy nhưng không có ai dám chọc thủng bức tường nầy bằng những lời lẽ chân thật. Chúng ta không t́m đâu thấy lời lẽ của Cao Bá Quát phê phán nhóm Thi Xă: “Câu thơ Thi Xă, con thuyền Nghệ An” để họ chừa bớt đi cái tính hênh hoang, kênh kiệu, tự đắc. Coi thiên hạ chẳng ra ǵ.  Chúng ta không chấp nhận cái lối ác độc như vậy, nhưng có phải chăng đây là cách duy nhất để dạy cho người khác bài học lễ độ của người làm thơ?  ( Như lời thang vang của một nhà thơ kỳ cựu khi đụng phải một vài kẻ hậu sinh thất lễ). C̣n có biện pháp nào kêu gọi ḷng tự trọng của mọi người khi đụng vào cơi thơ? Người nào làm được công việc nầy th́ nó cũng to lớn bằng công của bà Nữ Oa đội đá vá trời.◙

Phan Xuân Sinh